7 tháng 1, 2011

Tiên học Lễ - Hậu học Văn

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Xuân Quỳnh
Lớp: 10A8       Mã số: 28
Đề: Suy nghĩ của anh chị về lời dạy “Tiên học lễ, hậu học văn”
Bài làm
       Trong cuộc sống, trên hết của cải, tiền bạc, con người ta trân trọng nhất thái độ ứng xử giữa người với nhau. Chính vì lẽ đấy, dân gian ta có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn”.
       Trong câu nói đó, “tiên học lễ” nghĩa là con người trước hết phải co một phẩm chất đạo đức tốt, phải học được những thái độ ứng xử phù hợp với lề thói xã hội, sau đó, khi đã có được một nhân cách hoàn thiện thì mới bắt đầu học đến những bộ môn khoa học khác, đấy là “hậu học văn”. Tóm lại, câu nói của người xưa muốn truyền dạy cho thế hệt chúng ta rằng làm người trước tiên phải biết lễ nghĩa, đạo đức từ đó mới tạo nên một nền tảng tốt để học tập đỗ đạt được. Một con người nhận thức được những điều đó thì sẽ biết kính trên nhường dưới, biết “cảm ơn”, “xin lỗi” đúng lúc, biết phân biệt phải trái để có những hành động đúng mực đối với mọi người, hơn nữa, khi đã được dạy dỗ thì người đó sẽ biết suy nghĩ để làm việc, học tập nghiêm túc, chăm chỉ, không phụ lòng những người đã tin tưởng mình. Đấy là những thể hiện của một con người đã học được chữ “lễ” và chữ “nghĩa”.
       Lễ nghĩa là một trong những truyền thống quan trọng trong xã hội Việt Nam. Điều đó sẽ giúp con người tạo mối quan hệ tốt với bạn bè, hàng xóm, đem lại một niềm tự hào cho gia đình, được mọi người yêu thương, quý mến, coi trọng. Ngoài ra, tạo được uy tín trong công việc, sự nghiệp thành đạt. Hơn thế nữa, khi có ý thức thì con người sẽ biết sắp xếp, tổ chức việc học, việc làm một cách khoa học, từ đó, công việc của họ luôn được hoàn thành, có hiệu quả, cuộc sống sẽ trở nên nề nếp và thanh thản hơn. Xin lấy ví dụ từ giáo sư Ngô Bảo Châu, sinh ra trong hoàn cảnh đất nước khó khăn, nhờ được giáo dục ý thức từ nhỏ, nên ông đã có thái độ nghiêm túc trong việc học, cùng với sự cố gắng, ông đã thành công ngoài mong đợi. Vậy là đối với một con người, một nền tảng nhân cách tốt sẽ giúp họ có một tiền đồ tươi sáng, thành đạt.
       Thế nhưng, khi không cư xử lễ độ trong cuộc sống, chỉ “học văn” mà không “học lễ” thì học tập họ có thể làm tốt, nhưng họ không tạo được mối quan hệ tốt với bạn bè, không biết cư xử phải phép với mọi người thì họ sẽ không nhận được sự yêu mến, đồng cảm của những người xung quanh. Từ đó,  cuộc sống của họ sẽ bị cô lập, xa lánh, không có niềm vui và chia sẻ. Chưa hết, khi không có sự hợp tác, giúp đỡ, tinh thần không được tỉnh táo, thoải mái thì công việc lại càng gặp nhiều khó khăn, dễ bị phân tâm, khó đạt được hiệu quả như mong muốn. Như Hồ Chủ tịch đã nói: “Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức thì không dùng được”. Ngoài ra, cuộc sống vẫn còn những kẻ đạo đức giả, cố tỏ ra lễ phép, có tài nhưng sau lưng luôn phá ngầm, gây khó cho người khác, vừa không có đức mà lại không có tài, thật đáng lên án. Tóm lại, nhân cách không tốt thì chỉ kéo theo những hậu quả xấu, những điều không mong muốn.
       Vì những lẽ đó, trẻ em từ nhỏ nên được giáo dục từ gia đình và nhà trường, nên được rèn luyện một nếp sống, một nền tảng đạo đức bởi “cây non dễ uốn”. Còn những người trẻ, đã trưởng thành thì nên học tập những kỹ năng sống cần thiết như hoạt động nhóm, giao tiếp xã hội, nói trước đám đông. Quả thật, con người ta cần có một thái độ sống tích cực thì mới mong đạt được thành công trong mọi việc.
       Người xưa thật đúng đắn khi cho rằng có “học lễ”, có đạo đức thì sau đó con người ta mới “học văn” mới có thể giúp ích cho xã hội được. Để thay lời kết, xin trích dẫn câu nói: “Học để làm người, học để làm việc”.
              

Học với Hành phải đi đôi

Tên: Võ Ngọc Thảo
Lớp: 10A8
 --------------------
         Đề : Bác Hồ có nói: “Học với hành phải đi đôi”. Em hãy bình luận câu nói trên.

        Trong cuộc đời của mỗi học sinh, ngoài việc học những định nghĩa, định lý từ trong sách vở. Học sinh còn phải luyện tập, thực hành để ứng dụng những định nghĩa, định lý đó vào trong những thí nghiệm. Điều đó giúp cho học sinh có thể nhớ lâu hơn những lý thuyết đã học mà còn biết ứng dụng những điều đã học vào trong cuộc sống. Học tập và thực hành là hai yếu tố cần phải thực hiện song song thì mới tạo nên 1 người học sinh giỏi thực sự. Vì thế Bác Hồ đã từng nói “Học và hành phải đi đôi”. Chúng ta sẽ cùng đi phân tích câu nói ấy của Bác.
        “Học” là tiếp thu kiến thức bổ ích từ trong sách vở, từ những người đi trước, từ sách báo, từ Internet, từ những người chúng ta đã gặp. Việc học tập không chỉ giới hạn ở vài chục năm đầu đời mà phải thực hiện suốt đời. Vì kiến thức trên cuộc sống này là một sa mạc lớn còn kiến thức của con người chúng ta tiếp thu chỉ bằng hạt cát trên sa mạc. Cho nên việc học tập, học hỏi những kiến thức không thể ngừng nghỉ. “Hành” là làm thực hành, ứng dụng những điều đã học vào trong thực tiễn. Có thực hành thì mới giúp cho học sinh tiếp thu nhanh bài học hơn, những lý thuyết được nắm vững hơn. Nhưng việc thực hành lúc nào cũng phải sau việc học vì nếu không nắm vững những lý thuyết của bài học mà lại thực hành trước thì học sinh không thể tiếp thu được mà còn làm hư hại đến tài sản chung của nhà trường. Câu nói của Bác đã khẳng định học và hành là hai công việc của một quá trình thống nhất không thể tách rời: Học và hành luôn gắn bó song song với nhau.
        Học không đi đôi với hành thì việc học trờ nên vô ích, vô nghĩa. Đầu tư hời gian để học lý thuyết mà không vận dụng vào thực tế thì lãng phí thời gian. Ví như một người học bơi mà không dám xuống nước thì không bao giờ biết bơi; một học sinh chỉ nghe thầy cô giảng bải ở lớp mà về nhà không làm bài tập thì khó giỏi được. Ngày nay, ở một số nơi chỉ quan trọng lý thuyết hơn thực hành vì thế học sinh chỉ nắm được lý thuyết suôn mà khi đưa bài tập ứng dụng lại làm không được như khi học anh văn nếu chỉ học từ, ngữ pháp mà không đọc và nói thì tiếng anh không thể giỏi được. Hành mà không học thì khả năng thất bại rất cao. Không có lý thuyết và kinh nghiệm nên việc ứng dụng lý thuyết vào trong thực tiễn rất lúng túng mất nhiều thời gian công sức mà khó có thể thành công được. Chẳng hạn như một học sinh lười học định nghĩa, định lý mà muốn áp dụng vào trong bài tập thì sẽ không bao giờ làm được. Ngày nay, có nhiều thầy lang băm chưa qua trường lớp đào tạo mà đi chữa bệnh nên gây ra nhiều cái chết thương tâm cho những con người vô tội.
        Chúng ta cần phê phán những người tách rời việc học với việc hành. Học hành qua loa đối phó, không có động cơ học tập đúng đắn, không làm cho mình giỏi thật sự từ đó nảy sinh tiêu cực trong thi cử. Học đi đôi với hành là kinh nghiệm lịch ử của cả nhân loại trong quá trình nhận thức thế giới. Nền gió dục phong kiến chỉ coi trọng lý thuyết coi thường thực hành nên gây nhiều hạn chế cho người học. Hiện nay vì điều kiện cơ sở vật chất hạn chế nên việc thực hành của học sinh gặp khó khăn hơn nữa vẫn có nhiều học sinh chưa ý thức việc học đi đôi với hành.
        Là học sinh chúng ta phải biết kết hợp giữa việc học và thực hành song song với nhau. Ở nhà phải chuẩn bị bài học trước, sau khi nghe giảng và học thuộc lý thuyết kỹ thì bắt đầu làm những bài tập vận dụng những lý thuyết đã học. Như vậy học sinh sẽ nắm kiến thức vững nhất. Việc thực hiện “Học và hành phải đi đôi” không phải khó nhưng phải biết sử dụng thời gian hợp lý để không mất quá nhiều thời gian vào một môn học.
        Lời dạy của Bác Hồ “Học với hành phải đi đôi” có ý nghĩa quan trọng đối với việc dạy và học. Đó là phương châm giáo dục và là phương pháp học tập hiện nay. Muốn thành công không chỉ học lý thuyết, hôc vẹt mà chúng ta phải biết vận dụng lý thuyết một cách linh hoạt sáng tạo vào thực tế cuộc sống sao cho phù hợp vói điều kiện và hoàn cảnh mỗi người.

Sức mạnh của đoàn kết

Trần Ngọc Quỳnh Trâm
Lớp 10A15
Điểm: 3.0/3.0

ĐỀ BÀI:
Tục ngữ có câu:
                             Một cây làm chẳng nên non
                         Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Anh chị hãy viết một bài văn (khoảng một đến một trang rưỡi  giấy làm bài) trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề được chứa đựng trong câu tục ngữ trên.

                                      Bài làm
Tinh thần đoàn kết là một nét đẹp truyền thống của dân tộc ta từ xưa đến nay.  Không chỉ được thể hiện qua hành động, lời nói, người xưa còn để lại cho đời nay rất nhiều câu ca dao tục ngữ về tình đoàn kết. Vậy thế hệ trẻ hiện nay đang suy nghĩ gì về câu:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Trước hết , chúng ta hãy thống nhất một số khái niệm chung . “ Một cây “ ý chỉ một cá nhân, một phần từ rất nhỏ bé trong xã hội. Còn “ ba cây “ chính là một tập thể bao gồm nhiều người. Câu tục ngữ trên mang cho mình hai tầng ý nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Về nghĩa đen, câu tục ngữ muốn nói nếu chỉ với một cái cây nhỏ bé thì không thể nào làm nên ngọn núi hay ngọn đồi . Nhưng ngược lại, với ba cây thì ngọn đồi, ngọn núi đó sẽ được trọn vẹn rất nhiều. Cũng như trong công việc cchir có một cá nhân thì chẳng thể nào làm nên việc lớn được. Nhưng trong một tập thể với nhiều suy nghĩ và ý tưởng khác nhau thì con người sẽ đạt được sự thành công dễ dàng hơn. Qua câu tục ngữ trên, cá mà người xưa muốn gửi gấm đến chúng ta chính là tinh thần đoàn kết, một yếu tố rất cần thiết cho đời sống con người .
Thật vậy, đoàn kết là một nhân tố hết sức cần thiết để dẫn đến sự thành công. Xã hội ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực thì tinh thần đoàn kết lại càng phải được giữ vững và phát huy. Đoàn kết không chỉ mang lại cho ta những kết quả tốt đẹp mà nó cũng đã trở thành sợi dây vô hình liên kết con người lại gần với nhau hơn, từ đó tạo nên những mỗi quan hệ xã hội tốt đẹp. Trong công cuộc kháng chiến xưa thì mỗi người dân đã phải đoàn kết với nhau để đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc . Người này tương trợ người kia tạo nên những chiến thắng lẫy lừng. Đó không phải là thành công riêng  của bất cứ cá nhân nào mà chính là sự thành công của cả một tập thể, của cả dân tộc Việt Nam ta thời bấy giờ. Chắc hẳn ai cungc biết đường đến thành công không phải là một con đường bằng phẳng trái đầy hoa. Mà nó là một con đường với đầy thử thách và khó khăn luôn đợi ta. Sẽ thật tốt đẹp biết bao khi chúng ta cùng nhau học tập, làm việc, chia sẻ những cái hay, cái tốt cho nhau để rồi cùng nhau bước đến đỉnh vinh quang .
Đoàn kết với mọi người hay không là do chính ý thức của mỗi cá nhân. Phải đoàn kết thì chúng ta mới có thể tồn tại và phat triển. Nhưng đoàn kết cũng không có nghĩa là giúp người khác làm việc xấu hay che giấu những lỗi lầm của bạn. Mỗi người chúng ta cần nhận thức rõ về đoàn kết bởi vì nó chỉ mang lại một kết quả tốt đẹp khi ta có mục đích đúng đắn. Nhận thức sai lầm về tình đoàn kết se hại người và đôi khi ta cũng đã vô tình hại chính bản thân. Xã hội cầ phê phán những kẻ toan tính thấp hèn hay những người ích kỉ chỉ nghĩ đến bản thân mà không để ý đến mọi người xung quanh. Có như thế thì xã hội mới có thể tốt đẹp được.
          Là một học sinh, chúng ta cần rền luyện tinh thần đoàn kết và giúp đỡ nhau một cách đúng đắn trong học tập. Ngoài ra, mỗi người học sinh hãy tuyên truyền cho những người thân trong gia đình cũng như mọi người về tinh thần đoàn kết. Về phía nhà trường và các bậc phụ huynh, mỗi thầy cô và mỗi cha mẹ hãy giáo dục cho con em mình tình đoàn kết ngay từ lúc bé để sau này mỗi mầm xanh của đất nước sẽ nảy mầm và hình thành được một nhân cách tốt đẹp
          Đoàn kết là phẩm chất tốt, cần thiết cho mỗi người.Hãy đoàn kết với nhau để người với người có thể xích lại gần với nhau hơn. Xã hội chỉ thật sự tốt đẹp khi mọi người biết đoàn kết và tương trợ lẫn nhau.
                                                                  

Giữ gìn môi trường học đường XANH - SẠCH - ĐẸP

Trần Ngọc Quỳnh Trâm
Lớp 10A15
Điểm: 2.75/3.0
 NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Đề bài: Giới trẻ ngày nay suy nghĩ và hành động như thế nào để giữ gìn môi trường học đường xanh-sạch-đẹp.

                                  Bài làm

Đi ngang qua các trường học hiện nay , không quá khó để ta bắt gặp khẩu hiệu “ Cổng trường em xanh – sạch – đẹp “ . Vậy giới trẻ học đường đang nghĩ và hành động như thế nào để giữ gìn một môi trường học đường “ xanh – sạch – đẹp “
          Trước hết , chúng ta hãy cùng nhau thống nhất một số khái niệm chung . “ Xanh ” ở đây là màu xanh tươi mát của những hàng cây được trồng trong khuôn viên trường . Chính những hàng cây ấy là nơi đã tạo nên bóng mát cho mỗi người học sinh chúng ta được vui chơi và học tập cùng bạn bè . “Sạch” nghĩa là một môi trường trong lành không có sự xuất hiện của rác bẩn hay bị ô nhiễm do những tác động chung quanh . Vậy “đẹp” nghĩa là sao ? Đó chính là vẻ đẹp hình thức của cả bên ngoài và bên trong . “Xanh – sạch đẹp” là ba yếu tố luôn đi cùng nhau và hỗ trợ cho nhau giúp môi trường học đường của ta trở thành một môi trường thân thiện để học tập và vui chơi
          Thật vậy , việc giữ gìn môi trường “Xanh – sạch – đẹp” trong môi trường học đường hiện nay là hết sức cần thiết . Từ bậc tiểu học cho đến các cấp trung học phổ thông hay từ lúc bé cho đến khi nên người  , mọi người nên rèn luyện cho mình một ý thức giữ gìn nơi mình đang học tập sao cho thật tốt và thật đẹp . Và chính việc làm này sẽ giúp mỗi người tự hình thành cho bản thân một nhân cách tốt . Hiện nay , rác là vấn nạn ở khắp mọi nơi , dâu đâu cũng có sự xuất hiện của chúng kể cả bệnh viện hay trường học . Những nếu mỗi bạn trẻ có được một  nhận thức đúng đắn về tác hại của rách thì họ sẽ không để chúng có mặt trong giảng đường của mình . Vào những lớp học của các trường cấp hai , cấp ba hiện nay rất khó để ta thấy được những chiếc bàn sạch đẹp mà thay vào đó là những hình vẽ nguệch ngoạc và lấm lem cùng những dòng chữ được tô đỏ tô đen . Song bên cạnh đó cũng có những hành động bổ ít và hết sức đáng khen . Theo định kì , các trường luôn tổ chức những buổi tổng vệ sinh , những ngày chủ nhật xanh để trồng cây tạo bóng mát . Ai ai cũng năng nổ làm việc phù hợp với sức mình . Chỉ cần những hành động bé nhỏ như thế này thôi cũng đã đủ để mang lại sự thay đổi lớn cho môi trường học đường .
          Đất nước ngày càng phát triển hơn thì mỗi công dân cũng phải cần nâng cao ý thức của chính mình hơn nửa để góp phần đưa đất nước đi lên . Nhiều khi ta có thể thấy một đứa bé chỉ khoảng 5 tuổi những đã biết nhắc nhỏ bố mẹ mfinh phải bỏ rác đúng nơi qui dịnh . Những hình ảnh ấy thật đáng yêu . Bên cạnh đó ta cũng cần phê phán hai loại người . Đầu tiên là những bạn trẻ ý thức còn kém hay còn quá vô ý thức trước việc giữ gìn môi trường học đường “Xanh- Sạch – Đẹp” . Tiếp theo là những người ích kỉ khi nghĩ môi trường học đường là của chung , mình chỉ cần giữ nơi mình đang sống sạch đẹp là được . Đó là ý nghĩ hết sứ ssai lầm của các bạn học sinh hiện nay thể hiện sự hạn hẹp trong suy nghĩ của cách bạn . Nhìn hình ảnh của những ô lao công quét dọn rác bẩn trong lớp học mà đôi khi mỗi người chúng ta còn phải kinh hoàng . Hay những học sinh phá hoại cây cối , vật dụng của nhà trường cũng là một hiện tượng rất đáng chê trách
          Ban giám hiệu nhà trường cần nâg cao hơn nữa các biện pháp rèn luyện ý thức cho học sinh . Một nhóm học sinh cần được lập ra để tuyên truyền về trách nhiệm và ý thức cho các học sinh khác để làm theo khẩu hiệu “ Vì một môi trường học đường xanh – sạch – đẹp “ Bên cạnh đó cha mẹ cũng phải luôn hỗ trợ nhà trường để hình thành ý thức cho con em mình từ bé . Mặt khác , các biện pháp xử phạt cũng cần được chú trọng hơn . Riêng bản thân tôi cùng các bạn học sinh sẽ tích cực hơn trong những buổi tổng vệ sinh , những buổi tròng cây tao bóng mát cho trường . Đồng thời sẽ nhắc nhở các bạn cùng làm theo để rồi mọi người học sinh trong xã hội sẽ đều có ý thức tốt . Giữ gìn vệ sinh học đường là trách nhiệm của mỗi học sinh chúng ta không loại trừ bất kì ai
          Trường , lớp cũng như mái nhà thứ hai của mỗi người học sinh thời cắp sáh tới trường. Vậy bạn , tôi và chúng ta hãy cùng chung tay giữ gìn chính môi trường mà chúng ta đang học tập được “ Xanh – sạch – đẹp” .
                                                                               

Đoàn kết- 1 cây,,,và 3 cây...


Nguyễn Phước Thanh Hằng
Lớp: 10A15
Điểm: 2.75/3.0
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
ĐỀ BÀI:
Tục ngữ có câu:
                             Một cây làm chẳng nên non
                         Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Anh chị hãy viết một bài văn (khoảng một đến một trang rưỡi  giấy làm bài) trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề được chứa đựng trong câu tục ngữ trên.
BÀI LÀM
           Tinh thần đoàn kết từ xưa đến nay luôn giữ một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người chúng ta. Đoàn kết để chống giặc ngoại xâm, đoàn kết xây dựng đất nước…Tục ngữ có câu:
                              Một cây làm chẳng nên non
                         Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
            Câu tục ngữ trên như răn dạy con người chúng ta cần phải có tinh thần đoàn kết. “Một cây”thì quá nhỏ nhoi, quá yếu ớt, không thể nào làm thành hòn núi cao được ;nhưng nếu “ba cây” chụm lại sẽ rất dễ dàng tạo thành một hòn núi cao.Ý nghĩa sâu xa của câu tục ngữ nói đến sự thành công của con người khi làm một việc lớn. Nếu chúng ta biết hợp lực cùng nhau, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau thì cho dù công việc có khó khăn đến đâu cũng sẽ dễ dàng vượt qua được. Đoàn kết là sự hợp tác, gắn bó, thống nhất, đồng lòng giữa các cá thể  để tạo nên sức mạnh vượt qua mọi khó khăn,thử thách, hoàn thành nhiệm vụ dẫn đến sự thành công. Đoàn kết có ở khắp mọi nơi.Trong gia đình anh chị em yêu thương,giúp đỡ lẫn nhau.Trong học tập, các bạn học khá giỏi hướng dẫn cho các bạn học yếu hơn để cùng nhau tiến bộ. Nhà trường thường tổ chức những cuộc thi đua như Hội khỏe Phù Đổng ,Olympic nhằm tạo ra sân chơi để các học sinh có thể phát huy tinh thần đồng đội của mình một cách mạnh mẽ.
                Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta,là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành bại của con người.Trong một công ty,các nhân viên cùng nhau đồng lòng,hợp tác đưa công ty đi lên.Vì vậy sự thành công của công ty cũng chính là thắng lợi vẻ vang của mỗi cá nhân trong đó. Đoàn kết tạo ra sức mạnh hoàn thành tốt công việc,nhiệm vụ được giao để đạt được thành công.Từ xa xưa,khi các nước khác rắp tâm xâm lược, nhờ có lòng đoàn kết của dân tộc mà ông cha ta giữ được nước, bảo vệ được nền độc lập .Ngoài ra,đoàn kết còn tạo nên sự hợp tác ,đồng lòng của mỗi cá nhân,tạo mối quan hệ gần gũi,học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ người khác.Vì nhờ có lòng đoàn kết mà mỗi người có thể đưa ra ý kiến riêng,góp ý cho kế hoạch, mục đích chung.Trong môi trường học đường,mỗi học sinh đều cố gắng phát huy  hết sự đoàn kết sẽ là một tập thể mạnh đưa lớp phấn đấu vươn lên.
               Tinh thần đoàn kết là biểu hiện của người có văn hóa. Họ luôn đặt lợi ích chung của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Lấy lợi ích của tập thề lên hang đầu. Lòng đoàn kết đem lại rất nhiều lợi ích,vì vậy nếu không có tinh thần hợp tác,con người chúng ta sẽ rất đơn độc,riêng lẻ và dễ bị quật ngã.Câu chuyện bó đũa đã cho chúng ta thấy được điều đó. Một cây đũa rất dễ bị bẻ gãy nhưng cả một bó đũa thì cho dù có sức mạnh phi thường đến đâu cũng khó mà có thể bẻ được chúng.Thế nhưng thật đáng buồn khi hiện nay,nhiều học sinh kết bè phái gây chia rẽ lớp học. Trong công ty nhân viên cũ ức hiếp nhân viên mới gây mâu thuẫn nội bộ,làm ảnh hưởng đến cả một tập thể. Đó là những hành vi cần được lên án nghiêm khắc.
                Mỗi người cần rèn luyện cho mình tinh thần đoàn kết,hợp tác với mọi người để cuộc sống này còn có ý nghĩa.Bản thân là học sinh, chúng ta cần động viên mọi người cùng có lòng đoàn kết. Nhà trường cần tuyên truyền, vận động học sinh rèn luyện phẩm chất đạo đức tốt đẹp này, tổ chức thêm nhiều hội thi nhằm rèn luyện và tạo điều kiện cho các bạn học sinh phát huy được tinh thần đồng đội.
               Nhận thức được vai trò và lợi ích của lòng đoàn kết,mỗi người hãy đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi của cá nhân, không nên ích kỉ, hẹp hòi.Tóm lại, tinh thần đoàn kết là thước đo phẩm chất đạo đức của mỗi con người trong xã hội. 
              

Nam Cao

Tên học sinh: Trần Trung Nghĩa (24). Lớp: 11A8

Nam Cao.
I.Cuộc đời.

1.Tiểu sử.

Nam Cao (1917-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân tại Đại Hoàng, tổng Cao đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam.

Ông học hết bậc Thành Chung, sau đó vào Sài Gòn và có ý định du học, nhưng do sức khỏe nên phải về quê và thất nghiệp; có thời gian ông dạy học cho một trường tư ở Hà Nội, nhưng do chiến tranh, trường đóng cửa, ông chật vật với nghề viết văn và gia sư.

Năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê nhà. Năm 1946, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến; sau đó ông lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ. Năm 1950, ông tham gia chiến dịch Biên giới. Năm 1951, ông hi sinh trên đường làm công tác.

2.Con người

Bề ngoài, Nam Cao vụng về, ít nói, lạnh lung, nhưng đời sống nội tâm luôn sục sôi, căng thẳng: ông thường lấy làm xấu hổ những tư tưởng mà ông tự thấy là tầm thường, hèn kém của mình, đồng thời muốn khắc phục những tư tưởng ấy để sống xứng đáng với danh hiệu Con Người. Trong tâm hồn Nam Cao, thường xuyên diễn ra xung đột gay gắt giữa lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa dũng cảm với hèn nhát, giữa chân thực với giả dối, giữa khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường.

Nam Cao rất giàu ân tình đói với những người nghèo khổ bị áp bước và bị khinh miệt. Theo ông, không có tình thương với đồng loại thì không đáng được gọi là con người. Những tác phẩm ông viết về người nông dân nghèo là một thiên trữ tình đầy xót thương đối với những kiếp sống lầm than.

Nam Cao luôn suy tư về bản thân, cuộc sống, đồng loại từ thực tế mà để rút ra những khái phát triết lí sâu sắc.

 II.Sự nghiệp văn học.
1.   Quan điểm sáng tác.

Với tư cách là nhà văn, Nam Cao rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Chủ nghĩa hiện thực từ đầu thế kỷ XX đến Nam Cao mới thật sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó.

“Trăng sáng”, “Đời thừa” được xem như những tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao. Ông phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công, phục vụ thị hiếu “lãng mạn” của bọn trưởng giả no nê, nhàn rỗi, xem đó là thứ “ánh trăng lừa dối”.

DC: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than… Điền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời.” (Trăng sáng)

Nam Cao chủ trương văn học phải phản ánh chân thực và sâu sắc đời sống cực khổ của nhân dân trên tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Một tác phẩm văn chương hay, có giá trị phải chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc, mang nỗi đau nhân tình, tiếp sức mạnh cho con người.

DC: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho con người gần con người hơn” (Đời thừa).

Văn chương là một hoạt động sáng tạo, đòi hỏi người cầm bút phải biết khơi sâu, tìm tòi, khám phá cái mới.

DC: “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.” (Đời thừa).

Nam Cao quan niệm nhà văn phải là con người chân chính, phải có lương tâm, có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình, không được dối trá, cẩu thả, chạy theo đồng tiền.

DC: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện” (Đời thừa).

Sau CMT8 1945, Nam Cao vẫn tiếp tục sáng tạo theo quan điểm tích cực, song ông đã có cái nhìn toàn diện hơn về hiện thực. Tác phẩm “Đôi mắt” là một bản tuyên ngôn nghệ thuật khác của Nam Cao. Theo ông, phải có đôi mắt của tình thương mới thấu hiểu được bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động; nhờ giác ngộ về vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân , Nam Cao không chỉ nhìn họ bằng đôi mắt của tình thương mà còn cảm phục.

DC: “Người ta chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một miếng kính biến hình của vũ trụ…” (Nước mắt).
“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở và ngu ngốc… Toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương.” (Lão Hạc)

Tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, Nam Cao đã tự nguyện đặt cách mạng lên trên nghệ thuật. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc nghệ thuật lúc này là để sửa soạn cho tôi một thứ nghệ thuật cao hơn” (Nhật kí ở rừng) hay “nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vọng về”, “muốn vứt cả bút đi để cầm sung” (Đường vô nam). Như Nguyễn Đình Thi đã viết: “Anh nắm cổ nghệ thuật của anh, bắt nó phục vụ cho cuộc chiến đấu sống chết của dân tộc.”

Chốt: Nam Cao là nhà văn có quan niệm sáng tác tiến bộ.

2.   Phong cách nghệ thuật.

  Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người bên trong con người”. Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý đến hoạt động bên trong con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài.

DC: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động” (Sống mòn).

Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông có biệt tài miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện thượng dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, giữa hiền và dữ, giữa con người với con vật.

Mở rộng cho luận điểm trên:

Đối với Nam Cao, cái quan trọng nhất của tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cớ, hoàn cảnh mà là con người trước sự kiện, biến cố. Nam Cao không tốn công miêu tả, phân tích hoàn cảnh, mà những hoàn cảnh, sự kiện, tình tiết chỉ đóng vai trò khiêu khích, để cho nhân vật bộc lộ những nét tính cách, tâm lí của mình.

DC: “Đời thừa” không hướng ngòi bút vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lí của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách.

Nam Cao còn phân tích quá trình tích tụ những biểu hiện tâm lí nhỏ nhặt nhất của nhân vật, làm nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con người.

DC: Trong “Chí Phèo”, Nam Cao đã phân tích tâm lí của Chí Phèo từ lúc tỉnh dậy cho đến lúc được Thị Nở cho ăn cháo hành, từ bang khuâng, bang hoàng, thức tỉnh lương tri cho đến lo lắng, khát khao hạnh phúc để làm rõ được bản chất lương thiện vẫn còn sống trong tâm hồn Chí.

Nam Cao thường đặt nhân vật trong “hoàn cảnh nhỏ”, tập trung khai thác, khám phá, phát hiện, miêu tả cụ thể và sinh động tâm lí của con người bộc lộ trong cuộc sống hằng ngày => Chủ nghĩa hiện thực tâm lí đời thường.

DC: Trong “Đời thừa”, Hộ vốn nghèo lại phải gánh vác gia đình, phải “xoay tiền”, “điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách…” Hộ lang thang, u buồn, nuối tiếc “những mộng đẹp ngày xưa”, sau còn say, chửi mắng, đánh đập vợ con.

Nam Cao cũng thường rọi chiếu những hcỉ tiết tâm lí của nhân vật ánh sáng cuản hững tư tưởng có màu sắc triết lí thâm trầm, sâu sắc, khi thì nặng trĩu buồn thương, lúc pha hài hướcm hóm hỉnh.=> Chủ nghĩa hiện thực tâm lí-triết lí.

DC: “Chao ôi! Cuộc sống như cuộc sống của chúng ta đang sống bây giờ đã thật có gì đáng cho ta thấy vui chưa? Người ta ghét nhau hoặc yêu nhau, nhưng bao giờ cũng làm khổ nhau cả.” (Sống mòn).

Nam Cao đã mở rộng việc phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn con người, kể cả những “con người bé nhỏ” như Chí Phèo, Thị Nở. Nhiều nhân vật của ông đã “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Trong truyện Nam Cao, thế giới bên trong nhân vật, mặc dù là thế giới riêngm nhưng vẫn liên quan mật thiết đến thế giới bên ngoài. Đối với Nam Cao, việc “phân tích tâm lí nhân vật” không thể tách rời việc “phân tích xã hội”. Đây là khuynh hướng phân tích mới cho hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam.

Truyện Nam Cao có tính triết lí sâu sắc, triết lí mà không khô khan, xuất phát từ chính cuộc sống thực và từ tâm tư dằn vặt, đau đớn của nhà văn.

DC: “Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa, cái bản tính tốt của người ta bị những lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất.” (Lão Hạc).

Nhiều tác phẩm của Nam Cao được dệt nên từ những “cái hằng ngày” nhỏ nhặt, xoàngxĩnh liên quan đến đời sống riêng tư của các nhân vật mà không thường gọi là “những chuyện không muốn viết”. Thế nhưng qua đó, Nam Cao đã chạm đến vấn đề có tính nhân bản, đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa lớn lao, về thân phận con người, chứa đựng những triết lí nhân sinh sâu sắc, quan điểm nghệ thuật tiến bộ và vấn đề xã hội về tương lai của dân tộc và nhân loại. Bị kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh hang ngày, qua ngòi bút của Nam Cao, đã trở thành những bi kịch vĩnh cữu.

DC: Những tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ Điền xuống với biết bao khổ cực lầm than. (Trăng sáng).
Cái lí tưởng nhân đạo cao cả, hoài bão nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ “chết mòn” trước sự tấn công quyết liệt và dai dẳng, tàn bạo của cái đói, miếng ăn.( Đời thừa).

Truyện Nam Cao luôn thay đổi giọng điệu, trong đó có hai giọng điệu cơ bản nhất: giọng tự sự lạnh lung với những đại từ mang sắc thái dửng đưng hay khinh bạc: y, thị, hắn…và giọng trữ tình sôi nổi tha thiết với những thán từ “chao ôi”, “hỡi ôi”. Hai giọng văn tuy đối lập nhưng chuyển hóa qua lại tạo sự hài hòa. Ngoài ra giọng điệu khác nhau của các nhân vật được trần thuật bằng lời kể trực tiếp hay nửa trực tiếp.

Sau CMT8, Nam Cao nhiệt tình dùng ngòi bút phục vụ cách mạng, đã tiếng những bước vững chắc trên con đường nghệ thuật cách mạng. Truyện ngắn “Đôi mắt” xứng đáng đượcxem là tác phẩm vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

Với Nam Cao, truyện ngắn Việt Nam thể hiện đầy đủ tính hiện đại, đồng thời đạt đến độ hoàn thiện. Nam Cao còn có đóng góp lớn cho sự phát triển phong phú của ngôn ngữ văn xuôi nước ta.

Chốt: Nam Cao là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo với tài miêu tả phân tích nội tâm nhân vật bậc thầy, nêu lên những triết lí nhân sinh sâu sắc, có sức khái quát lớn, xứng đáng là một nhà văn tài ba của văn học Việt Nam.

3.Các đề tài chính.

I. Trước Cách mạng.

Những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng gồm gần sáu mươi truyện ngắn, một truyện vừa, một tiểu thuyết, kịch và thơ.

Nam Cao xoay quanh hai vấn đề chính: người nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Tuy khác nhau về đề tài nhưng các sáng tác của ông vẫn có chung một tư tưởng: nỗi băn khoăn đau đớn trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới.

  1. Đề tài người trí thức nghèo.

Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất, mỗi trang viết về đề tài người trí thức nghèo đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.

Thứ nhất, Nam Cao đau đớn, phẫn uất trước tình cảnh con người không sao thoát khỏi kiếp “sống mòn” hay “chết mòn”. Những ước mơ, niềm say mê khát vọng chân chính cuản hững nhân vật trí thức trong tác phẩm Nam Cao đều bị vùi dập bởi hoàn cảnh, cuộc đời. Nam Cao chán ghét cuộc sống vô lí, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”. Ông không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh học. Nam cao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn tột độ trước bị kịch của những con ngườim uốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đó, ta thấy Nam Cao đã có cái nhìn sâu sắc, có tầm triết lí, tổng  hợp khái quát cao về tình trạng “chết mòn” của con người.

DC: “Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày” (Sống mòn).
“Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì đó để mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết ucc5 chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?” (Đời thừa).

Thứ hai, những nhân vật trí thức của Nam Cao không những “chết mòn” những ước mơ, khát vọng, hoài bão mà còn “chết mòn”về mặt nhân cách con người, dẫn đến những ý nghĩ, hành động tàn nhẫn. Qua đó, Nam Cao đã phê phán sâu sắc cái xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống , tàn phá tâm hồn con người.

DC: Trong cơn say vật vã, Hộ đã chửi bới, quăng đồ đặc, đánh đập đòi đuổi Từ và các con trong “Đời thừa”.

Thế nhưng, trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạngcó những hành động tàn nhẫn, Nam Cao vẫn không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình. Nhân vật của Nam Cao không phải không có lúc ngả nghiêng, chao đảo, nhưng cuối cùng đều đứng vững trên lập trường nhân đạo, vẫn giữ vững được cái lẽ sống tình thương cao cả của mình.

DC: Mặc dù bế tắc, khổ đau nhưng Hộ trong “Đời thừa” vẫn không chấp nhận sự tàn nhẫn và không thể vứt bỏ tình thương: “Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương…”

Cuối cùng, Nam Cao thể hiện niềm khát khao một lẽ sống lớn, một cuộc sống sâu sắc, mãnh liệt, có ích, có ý nghĩa. Những con người mang hoài bão lớn hầu như lâm vào cảnh “chết mòn”, nhưng dẫu bị “áo cơm ghì sát đất”, họ vẫn chưa hoàn toàn cạn hết niềm tìn, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển.

DC: Thứ trong “Sống mòn” đã từng “thích làm một việc ảnh hưởng đến xã hội ngay” và quan niệm: “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng trong mình…Mỗi người chết đi, phải để lại chút gì cho nhân loại.”

Nam Cao đòi hỏi để cho mỗi cá nhân được phát triển đến tận độ với một ý thức đầy trách nhiệm và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của xã hội. Tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện đại Việt Nam trước Cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài cả thời đại Nam Cao.

TPTB: “Đời thừa”, “Trăng sáng”, tiểu thuyết “Sống mòn”…

  1. Đề tài người nông dân nghèo.

Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, của những con người nghèo khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến.

Viết về đề tài này, Nam Cao đã dựng nên một bức tranh sống động, chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói, xơ xác, thể thảm những năm 1940-1945.

DC:

Nam Cao chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bị một cách bất công.

DC:

Nam Cao còn lên án cái xã hội, những thành kiến, định kiến tồi tệ đã đẩy con người vào đường cùng tuyệt vọng, hủy hoại từ ngoại hình cho đến nhân phẩm của họ.

DC: Cái chết của Chí Phèo phần nào minh chứng cho điều này, Chí Phèo đã bị tước đoạt ngoài hình, bị xã hội hắt hủi, cự tuyệt quyền làm người lương thiện, bị từ chối cả tình yêu với thị Nở, cuối cùng Chí phải tự sát để giải thoát.

Trên hết, Nam Cao với trái tim yêu thương chân thành, ông vẫn tin rằng trong tâm hồn của những con người không còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như những con vật vẫn còn nhân tính, khát khao nhân bản và bản chất lương thiện vẫn còn tồn tại. Bằng việc phát hiện ra cái phần con người còn sót lại, trân trọng những khát khao nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng chừng đã bị cuộc đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong những nhà nhân đạo lớn nhất nền văn học hiện đại Việt Nam.

DC: Đằng sau bộ mặt xấu xí “ma chê quỷ hờn” của Thị Nở vẫn tồn tại một khát khao yêu thương, và khi được tình yêu sưởi ấm, thị cũng hồi hộp, vui mừng, cũng “lườm”, “quýt”, “âu yếm”, “e thẹn”…
Thậm chí, ở Chí Phèo- một kẻ lưu manh bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính- vẫn cảm nhận được những rung động của tình yêu, vẫn lo lắng, và khao khát lương thiện trước sự chăm sóc của Thị Nở.

=>Đối với Nam Cao, chỉ có tình thương yêu giữa con người với con người mới có sức mạnh cảm hóa, làm “người gần người”, cuộc sống tốt đẹp hơn.

THPT: “Chí phèo”, “Một bữa no”,  “Một đám cưới”, “Lão Hạc”, dì Hảo”…

Chốt: Dù viết về đề tài gì đi nữa thì Nam vẫn là một nhà văn hiện thực lớn bằng việc miêu tả xã hội, con người trước xã hội, đồng thời ông cũng là một nhà văn nhân đạo lớn luôn đặt tình thường yêu lên làm đầu khi sáng tác.

II. Sau Cách mạng.

Sau CM, Nam cao dùng ngòi bút phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.

TPTB: “Nhật kí ở rừng”, “Đôi mắt”, “Đường vô nam”…

III.Kết luận.

Nam Cao là nhà văn hiện thực và nhân đạo lớn.

Những tác phẩm của ông trường tồn với thời gian với những ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện độc đáo.

Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa nửa đầu thế kỉ XX.