21 tháng 4, 2011

Ôn tập môn ngữ văn: Luyện cho thí sinh kỹ năng phân tích đề

Theo giaoduc.edu.hcm Thứ Tư, 20 Tháng tư 2011, 08:04 GMT+7 

Khi ôn tập, giáo viên phải hướng dẫn học sinh kỹ năng phân tích đề, có thể đưa ra hai câu thơ hoặc một ý kiến để các em tập viết thành một đoạn văn. Ảnh: N.Anh
Cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT môn ngữ văn thường có 3 câu, trong đó câu 1 hỏi về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của tác giả. Do đó, với câu hỏi này đòi hỏi thí sinh phải thuộc bài, biết nêu những ý chính phần tiểu dẫn trong SGK. Tuy nhiên, so với SGK cũ, nội dung SGK mới hiện nay có phần nhẹ hơn, không nặng nề như các năm trước. Thí sinh cần lưu ý đây không chỉ là câu hỏi về tác giả văn học nước ngoài mà cả văn học Việt Nam nữa. 
 Đây cũng là câu hỏi “tốn công” thí sinh nhiều nhất vì phải nắm hết kiến thức tất cả tác giả được giới thiệu trong chương trình. Nhiều khi đề bài cũng hỏi về một số chi tiết trong tác phẩm. Ví dụ khi đề bài hỏi về: “Ý nghĩa hình tượng rừng xà nu” thì các em phải xác định bên cạnh ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa biểu trương của hình ảnh đó. Ngoài thao tác giải thích phải có dẫn chứng tiêu biểu để chứng minh. Phân tích tác phẩm văn xuôi đòi hỏi các em phải nhớ dẫn chứng và biết cách cảm nhận nên khó hơn so với phân tích thơ. Chính vì vậy, nhiều em hay bị sa vào diễn xuôi, kể lại cốt truyện từ đầu đến cuối. Đây là điều cần tỉnh táo để tránh khỏi bị “vướng” vào. Tất nhiên cách phân tích ở đây không giống như phân tích toàn bộ tác phẩm ở bài văn nghị luận văn học như ở câu 3.

Câu 2, thuộc văn nghị luận xã hội, bàn về một vấn đề tư tưởng, đạo lý hay hiện tượng xã hội trong cuộc sống. Mặc dù đáp án được 3 điểm nhưng đa số thí sinh không trình bày đúng như đáp án vì chưa có nhiều kiến thức xã hội nên tổng số điểm ít khi đạt được tối đa mà chỉ dao động từ 1-1,5 điểm. Ở câu hỏi này các em vừa trình bày thực trạng, vừa giải thích nguyên nhân, đồng thời tìm được giải pháp khắc phục. Ví dụ đề thi yêu cầu: “Vai trò của nhà trường đối với việc truyền thụ kiến thức văn hóa” thì thí sinh phải trình bày được những biểu hiện của vấn đề và biết liên hệ vào thực tế. Nên tìm những vấn đề gần gũi vì thông thường thí sinh yếu về dẫn chứng thực tế. Thí sinh biết xác định đề bài hỏi về vấn đề gì không phải là chuyện dễ. Muốn vậy thì phải có kỹ năng phân tích đề. Khi luyện tập, giáo viên có thể đưa ra hai câu thơ hoặc một ý kiến để các em phân tích, tập viết thành một đoạn văn.

Ở phần nghị luận văn học, giáo viên yêu cầu phân tích chi tiết truyện như hành động cởi trói A Phủ của nhân vật Mỵ, nhan đề tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, đôi bàn tay của Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu… Khi luyện tập kỹ năng phân tích nhân vật, giáo viên không yêu cầu các em phân tích toàn bộ tác phẩm mà “nhặt” ra một ý nhỏ, một sự kiện đặc biệt trong cuộc đời nhân vật để tập phân tích như: “Niềm hi vọng tương lai ở nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt”.

Đặc biệt, để hệ thống hóa kiến thức, giáo viên nên lập bảng hệ thống để các em tự soạn bao gồm các cột như tên tác phẩm, thể loại, cuộc đời tác giả, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung và nghệ thuật…
Phạm Chí Dũng
(Chuyên viên Phòng GDTX Sở GD-ĐT TP.HCM)
Phân tích tác phẩm văn xuôi phải chú ý tình huống truyện, kết cấu, miêu tả tâm lý tính cách nhân vật, cách đối thoại, ngôn ngữ kể chuyện, giọng văn… Phân tích nhân vật thì chú ý số phận, nội tâm, tính cách, mối quan hệ của nhân vật này với các nhân vật khác. Phân tích thơ thì chú ý thể thơ, hệ thống hình ảnh, sử dụng ngôn từ, bút pháp miêu tả…

17 tháng 4, 2011

NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI- MẪU NGƯỜI VỢ, NGƯỜI MẸ LÝ TƯỞNG???

Ðề: Hình ảnh người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu


Dàn ý chi tiết phần thâm bài:

- Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người có ngoại hình xấu xí. Những nét thô kệch ấy, trong lam lũ vất vả bởi những lo toan và mưu sinh thường nhật, khi đã ngoài 40, lại càng trở nên đậm nét.
- Sức chịu đựng và sự hi sinh thầm lặng của người đàn bà làng chài làm nhiều người ngỡ ngàng
+ Vừa ở dưới thuyền lến tới chiếc xe rà phá mìn, chị đã bị chồng rút chiếc thắt lưng quật tới tấp. Nghệ sĩ Phùng tưởng chị sẽ tránh né hoặc kêu la. Nhưng chị cam chịu, nhẫn nhục, không kêu rên, không chống trả và cũng không chạy trốn. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình; chấp nhận như cuộc sông của một người đi biển đánh cá phải đươg đầu với sóng to, gió lớn vậy. Muốn tồn tại thì phải chấp nhận.
+ Tuy nhiên, người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Chỉ sau khi biết được hành dộng vũ phu của chồng bị thằng Phác và người khách lạ chứng kiến, chị mới thấy đau đớn- vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. GIọt nước mắt đau khổ của người đàn bà đã trào ra. Đó là giọt nước mắt nhọc nhằn và chịu đựng.. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót, kể cả thằng Phác đứa con yêu của chị, và nhất là một người lạ. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm, nhưng người đàn bà ấy không hề bận tâm – một sự nhẫn nhục của người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu lẽ đời, có tình thương con vô bờ.
+ Khi ở tòa án huyện, chính người phụ nữ ấy đã đem đến cho phùng, Đẩu và người đọc những xúc cảm mới. ĐƯợc mời lên tòa án để giải quyết việc gia đình, lúc đầu chị rụt rè, tìm một góc dường chốn công đường kia để ngồi. CHị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị thật nhỏ bé, tội nghiệp ở chốn công đường kia. Cái thế ngồi là bị động, dù đã được Đẩu và phùng chia sẻ, cảm thông.
+ NMC đã dụng công nhấn mạnh vào sự đổi thay ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Với chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng, lúc đầu chị thưa gửi, xưng con và có lúc van xin con lạy quý tòa. Khi đã lấy được tự tin, tâm thế đã thay đổi, người đàn bà đó đột ngột chuyển cách xưng hô: “chị cảm ơn các chú! Đây là lời chị nói thành thự, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn lam lũ, khó nhọc…” Một sự hoán đổi ngoạn mục.+ Người đàn bà ấy chấp nhận đau khổ, coi nõi khổ là lẽ đương nhiên. CHị sống cho con chứ không phải cho mình. Nếu phụ nữ chấp nhận đàn ông uống rượu, thì chị cũng chấp nhận bị đánh, chỉ xin chồng đánh ở trên bờ, dừng để các con nhìn thấy.ĐÓ cũng là một cách ứng xử nhân bản.
+ Ở đây. Lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều.- Có thể nói, người đàn bà hàng chài là biểu tượng của tình mẫu tử. CHị quặn lòng vì thương con; chị đã cảm nhận và chấp nhận san sẻ nỗi đau với chồng, cảm thông và tha thứ cho chồng. VỚi chị, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên, cho dù có những tính cách sứt mẻ, chưa hoàn thiện

ĐỌc truyện này, mình cứ thấy hai hình ảnh đối lập: một người đàn bà lặng lẽ cam chịu, nhẫn nhục, cục mịch, xấu xi và một người đàn bà tươi tắn, rạng rõ nụ cười trong bữa cơm gia đình. Dường như người đàn bà thứ 2 kia để lại ấn tượng sâu sắc hơn

MỴ TRONG ĐÊM CỨU A PHỦ

Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồngA Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xâydựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài.Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoàiđã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi,chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. TôHoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảmsống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa.Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật,trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý vàhành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sựphát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động củanhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trịhiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượngnhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũngcúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam chịu,buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mịcó nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử.Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người màmình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thầnquyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa condâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làmMị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lángón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quenkhổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình,trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng củamột người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sốngđen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triểntheo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậctrước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hátngười đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa...Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưngsợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấychỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồncủa một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật làmột đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sauhàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêmcô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đờitrâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổcái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sốngtiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổiđi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mịvượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngờilên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính lànhững đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đôngrét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếplửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị tróiđứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửahơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lạilãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chếtlà một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen vớiđiều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ,Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của ngườikhác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cảrồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mịlé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắtlấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt củamột kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòngnước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuântrước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơixuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giốngmình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông chonhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nóbắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lýtrí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chếtcòn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà mộtngười thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phảilấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ khôngbằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thếmà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đaukhổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắtta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đâythôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm naythôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ngườikia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chếtvì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh APhủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cộttưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị làcó cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời,yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêuthành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khitrói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại khôngđối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh”của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với ngườicùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúpMị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước sốphận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đếncái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến vớihành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là mộtviệc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lícủa Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờmình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng“đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặngtrong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mốicủa Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủhay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúcMị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băngđi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúaphong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mịđuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu nămcâm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khaokhát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biếtbao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân- hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời củamình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rờibỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗibuồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏHồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũngchưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàngđóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trênsố phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tựcứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi nhữngphẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụnự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho sốphận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạycảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửacòn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ởđó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân límuôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chốnglại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩmnày giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập“Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trongthể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắcdân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàutính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm“Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng doHội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ”thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trịnghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắnnày quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảmthông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiếnmiền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đâyquả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạohóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đờithừa”.

Sức sống mãnh liệt của Mỵ trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài

        Nhắc đến Tô.Hoài, ta nhớ ngay đến một nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm mang đậm màu sắc dân tộc, thấm đượm chất thơ chất trữ tình,ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình. .Năm 1952 Tô Hoài đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc.Trong chuyến đi 8 tháng này, TH đã sống gắn bó với đồng bào các dân tộc.Sau đó,ông sáng tác ”Vợ chồng A Phủ”. Trong truyện,tác giả đã tái hiện một cách xúc động cuộc sống tủi nhục của đồng bào Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân.Họ bị tước đoạt tài sản,bóc lột sức lao động và xúc phạm nhân phẩm. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn luôn khát khao hạnh phúc, vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liết. Điều đó được tác giả tập trung miêu tả trong đoạn văn kể về diễn biến và hàng động của Mỵ trong đêm tính mùa xuân ở Hồng Ngài.

Lúc đó, khung cảnh mùa xuân căng tràn sự sống,niềm vui.Không khí tưng bừng, nhộn nhịp”Trai đánh pao,đánh quay,thổi sáo,thổi khèn nhảy”.Màu sắc rực rỡ”Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ”Âm thanh réo rắt mời gọi”Những đêm tình mùa xuân đã tới, tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường…
“Anh ném pao,em không bắt
Em không yêu,quả pao rơi rồi
Tgiả miêu tả bức tranh thiên nhiên Tây Bắc nhiều màu sắc, thấm đượm chất thơ,chất trữ tình. Qua đó ,ta hiểu thêm về khung cảnh vùng cao cùa Tổ Quốc.Ta biết thêm về cuộc sống,phong tục , sinh hoạt của người miền núi. Âm thanh tiếng sáo thiết tha mời gọi cùng với thiên nhiên , cuộc sống căng tràn niền vui đã tác dộng đến tâm hồn Mỵ.

Trong một đêm tình mùa xuân năm đó,dĩên biến tâm trạng và hành động của Mị đã có nhiều thay đổi.Lúc đó ngoài đầu núi có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi.Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.Đây có lẽ là dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh trong tâm hồn Mị.Cô bắt đầu nghe được âm thanh của sự sống và đang dần dần hoà nhập vào cuộc sống.

Ngày Tết,”Mị cũng uống rượu. Rồi say,nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.” Mị nhớ lại “Ngày trước,Mị thổi sáo giỏi.Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo.Có biết bao nhiêu người mê,ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.”Mị tự hào về tài năng của mình,hãnh diện về một thời tươi đẹp xưa kia.Những cảm xúc trong tâm hồn Mị đang hồi sinh.

Cứ như thế,”Mị ngồi xuống giường.Đã từ nãy,Mị thấy phơi phới trở lại,trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”.Mị không còn giống tảng đá như trước.Tâm hồn Mị đã có những cảm xúc.Mị nhớ về quá khứ tươi đẹp và cảm thấy vui .Sự hồi sinh của nhưng cảm xúc đó dẫn đến nhận thức của Mị cũng có thay đổi. Mị ý thức được “Mị trẻ lắm.Mị vẫn còn trẻ”.Bao đời nay, tuổi trẻ luôn gắn liền vớí tình yêu,hạnh phúc.Mị ý thức mình còn trẻ cũng là cô hiểu rõ mình có quyền hưởng hạnh phúc.

Thế nhưng ,hiện thực đen tối đối lập với quá khứ tươi đẹp.Và mơ ước về hạnh phúc khó trở thành sự thật.Mị lại muốn chết.”Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này,Mị sẽ ăn cho chết ngay,chứ không buồn nhớ lại nữa.Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường”.Mị ý thức được quyền sống,quyền được hưởng hạnh phúc của mình đã bị tước đoạt.Mị đang sống trong hoàn cảnh bi thảm mà cô khó có thể thoát ra được.Ý nghĩ về cái chết lúc này có thể được coi như một hành động phản kháng để lên tiếng đòi quyền được sống hạnh phúc.

Sau đó,”Mị đến góc nhà,lấy ống mỡ,xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp đèn là thắp lên ánh sáng để xua tan bóng tối đang bao phủ căn buồng mình, cuộc đời mình.Mị thắp đèn là Mị đang làm sáng lên cuộc đời mình,là làm cho khát vọng về hạnh phúc của mình sớm trở thành hiện thực.Có thể nói hành động Mị thắp đèn là một bước chuyển quan trọng đánh dấu sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị.Cô đang thắp lên ánh sáng của niềm tin, hi vọng cho cuộc đời mình.

Tiếp theo liền sau đó,Mị vùng lên muốn đi chơi. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo.Mị muốn đi chơi.Mị cũng sắp đi chơi.Mị quấn lại tóc.Mị với tay lấy cái vaý hoa vắt ở phía trong vách.”Tác giả đã dùng một loạt các câu văn ngắn,miêu tả dồn dập những hành động liên tiếp của Mị.Mị hành động như một người tự do.Điều này chứng tỏ khát vọng mãnh liệt về hạnh phúc đang trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ trong tâm hồn Mị.
Thế nhưng, khát vọng chính đáng đó bị dập tắt ngay lập tức.A Sử đã trói Mị lại bằng một thúng sợi đay vào cột nhà.”A Sử quấn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được”Vậy mà “,Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị Mị đi theo những cuộc chơi,những đám chơi” Mị quên mình đang bị trói”Mị vùng bước đi”.Hành động này cho ta thấy tình yêu cuộc sống tự do,khát vọng về hạnh phúc trong lòng Mị đang trỗi dậy mạnh mẽ ,không gì có thể dập tắt được.

Ở đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân,ta thấy nhiều lần Tô Hoài nhắc đến tiếng sáo.Vào một ngày Tết” Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi “Mị chợt nhận ra những đêm tình mùa xuân đã tới.”Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”Chính âm thanh tiếng sáo dìu dặt đã làm cho Mị nhớ lại “Ngày trước,Mị thổi sáo giỏi.Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo.Có biết bao nhiêu người mê,ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.”Lúc Mị muốn chết thì “Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”.Có lẽ tiếng sáo gọi bạn này đã tiếp thêm sức mạnh cho Mị hành động.Mị chuẩn bị đi chơi khi “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”.Khi bị A Sử trói đứng ở cột nhà” Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị Mị đi theo những cuộc chơi,những đám chơi”….Am thanh tiếng sáo vốn là biểu tượng của mùa xuân ,của tình yêu, của sự sống.Mị nghe được âm thanh này chính là Mị nghe được âm thanh của cuộc sống,của hạnh phúc.

Trước đây, ta tưởng khát vọng sống đã tàn lụi và chết hẳn trong tâm hồn Mị.Thế nhưng không!Ngọn lửa tình yêu cuộc sống,khát vọng về hạnh phúc tự do vẫn âm ỉ cháy trong sâu thẳm tâm hồn Mị.Khi có điều kiện thuận lợi,ngọn lửa đó đã được khơi dậy và bùng lên .Điều kiện đó chính là Mị đang sống trong một đêm tình mùa xuân,mùa của sự sống căng tràn,mùa của tình yêu.Lúc đó âm thanh tiếng sáo bồi hồi,tha thiết,lơ lửng luôn dập dìu vang lên mời gọi.Đã vậy lại thêm có men rượu nồng nàn.Tất cả các yếu tố trên cùng cộng hưởng làm cho những khát khao về hạnh phúc trong tâm hồn Mị hồi sinh và bùng lên mạnh mẽ.


Thế nhưng,thực tại phũ phàng đã bóp chết những khát vọng chính đáng đó.Bị A Sử trói cả đêm bằng một thúng dây đay.Tay chân đau đến mức Mị không còn nghe tiếng sáo nữa.Khát vọng về hạnh phúc một lần nữa bị dập tắt trong tâm hồn Mị.Cô lại trở về với kiếp sống không bằng con trâu,con ngựa như xưa kia…

16 tháng 4, 2011

Vợ nhặt -Vẻ đẹp của tình người

Bài văn điểm 10 của thí sinh ĐH Huế - Câu 2 (5 điểm)

Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực, có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời.

Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.

Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ.

Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.

Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ.

Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở các nhân vật như anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đồng”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa.

Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời mình phía trước ra sao. Tràng thật là liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng.

Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phờ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.

Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ “ấm áp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua”.
Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?

Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không phải là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một con người có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.

Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên.
Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là cả một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người.
Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo đã rách bợt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ cùng cực.

Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời, người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ. Nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng, tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật.

Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.

Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.

Sau khi thấu hiểu mọi điều, bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".

Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình.

Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.

Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.

Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.

Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.

Hình tượng Rừng Xànu-Biểu tượng của sự bất diệt

Bài văn điểm 10 2006 ĐH Đà Nẵng, TS Hoàng Thuỳ Nhi 

-------------------
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có T Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc.

Môn Văn - Cách học thiếu sáng tạo khó đạt điểm cao

 sggp , Thứ tư, 13/04/2011, 00:00 (GMT+7)
Đề thi tốt nghiệp môn Văn ngày càng chú ý đến tính chủ động và sáng tạo của học sinh. Trao đổi với PV Báo SGGP, Thạc sĩ Triệu Thị Huệ, tổ trưởng môn Văn Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong TPHCM, cho biết: Đã đến lúc không được coi môn Văn chỉ là một môn “học bài”, chỉ cần học thuộc lòng là có thể làm được bài. Thực ra, đây là môn học đòi hỏi không chỉ là sự chăm chỉ, mà còn là tư duy, sáng tạo ở học sinh. Với những học sinh có thói quen học “gạo” từng chữ, rõ ràng đây là một trở ngại và thử thách cần phải vượt qua. Yêu cầu thông hiểu và vận dụng kiến thức mà bộ đặt ra cũng đồng thời giúp giáo viên kịp thời bổ sung, điều chỉnh phương pháp ôn tập cho học sinh.
- PV: Theo thống kê của Sở GD-ĐT TPHCM, kết quả sơ kết học kỳ 1 của các trường THPT cho thấy tỷ lệ học sinh giỏi môn Văn khá thấp, chỉ chiếm 6%, trong khi đó tỷ lệ học sinh kém môn Văn rất cao, lên tới 17%. Theo cô, đối với những trường hợp này, giáo viên phải có cách hướng dẫn ôn tập thế nào cho phù hợp?
- Thạc sĩ Triệu Thị Huệ: Tỷ lệ học sinh có điểm kém môn Văn cao, theo tôi cũng có phần lớn nguyên nhân từ chính cách học thiếu chủ động, sáng tạo ở học sinh. Để khắc phục tình trạng này, tất nhiên không phải một sớm một chiều. Tuy nhiên, trước kỳ thi tốt nghiệp THPT và ĐH-CĐ đang đến gần, ngay từ bây giờ, giáo viên phải tập cho HS làm quen với những dạng đề có sự kết hợp cao giữa yêu cầu tái hiện và vận dụng kiến thức, và quan trọng nhất là phải chú ý rèn kỹ năng làm bài. Môn Văn có rất nhiều dạng đề bài, mỗi dạng đề bài này lại có cách thức giải quyết riêng. Nắm được kỹ năng làm bài với mỗi dạng đề bài, học sinh sẽ chủ động trong mọi tình huống. Việc học và ôn thi môn Văn vì thế sẽ nhẹ nhàng hơn, bớt áp lực hơn.
- Hiện nay do xu hướng chọn ngành, chọn nghề, nên nhiều học sinh khá giỏi phải tập trung vào một số môn nhất định, vì vậy nhiều em đã bỏ thi môn Văn, thậm chí có quan niệm thi tốt nghiệp Văn chỉ cần ở mức 3 - 5 điểm, miễn sao thi ĐH khối mình chọn đạt kết quả cao là được. Cô nghĩ sao về điều này?
- Rõ ràng, việc coi nhẹ môn Văn và những hậu quả của nó (như việc nhiều sinh viên khi ra trường vẫn yếu kỹ năng giao tiếp, diễn đạt…) đã được dư luận quan tâm, thậm chí báo động trong nhiều năm qua. Trong rất nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân từ việc học sinh nhận thấy đây là môn học còn nặng nề, mang tính áp đặt, từ đó nảy sinh tâm lý chán học, học đối phó… Với cách ra đề thi chú ý nhiều đến tính chủ động, sáng tạo của HS như hiện nay, tôi tin rằng môn Văn sẽ là môn học chiếm được cảm tình, hứng thú ở người học.
- Trong kỳ thi tốt nghiệp 2011 cũng như thi ĐH-CĐ năm nay, cô có lời khuyên nào dành cho các bạn học sinh sắp “vượt vũ môn”?
- Để làm bài thi (ở cả kỳ thi tốt nghiệp THPT và ĐH-CĐ), học sinh cần nắm thật chắc cấu trúc đề thi do Bộ GD-ĐT ban hành, vì trong cấu trúc đề thi, không chỉ thể hiện các dạng thức đề thi mà còn bao gồm cả phạm vi kiến thức cần ôn tập. Cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa hai kỳ thi (tốt nghiệp THPT và ĐH-CĐ) về phạm vi kiến thức, về thời lượng, dung lượng bài viết. Ở kỳ thi tốt nghiệp, cần tránh quan niệm cho rằng câu hỏi tái hiện kiến thức về giai đoạn, tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam và nước ngoài chỉ tập trung vào một vài tác phẩm. Cần rèn cách trả lời rõ ràng, mạch lạc, có thể gạch đầu dòng chứ không nhất thiết phải viết thành đoạn hay bài văn. Với bài văn nghị luận xã hội (khoảng 400 từ), để đảm bảo được thời gian, không ôm đồm đưa vào bài quá nhiều dẫn chứng thực tế. Cần ôn tập cách làm bài đối với cả hai dạng bài (nghị luận về tư tưởng đạo lý và hiện tượng đời sống). Ở kỳ thi ĐH-CĐ, chú ý rèn kỹ năng làm bài với dạng đề có tính chất so sánh, tổng hợp (ở cả nghị luận văn học và nghị luận xã hội). Với dạng đề bài này, nên tách riêng từng vấn đề ra để giải thích, phân tích, bàn luận rồi tổng hợp lại, so sánh, đối chiếu về sự tương đồng, khác biệt (ở nghị luận văn học), rút ra những giải pháp, bài học nhận thức và hành động (ở nghị luận xã hội).

NGUYỄN THỦY (thực hiện)

1 tháng 4, 2011

Trách nhiệm của Thí sinh

Điều 25. Trách nhiệm của thí sinh trong kỳ thi
 1. Thí sinh phải có mặt tại trường đã đăng ký dự thi theo đúng thời gian và địa điểm ghi trong Giấy báo dự thi để làm thủ tục dự thi
 a) Xuất trình giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời (đối với những thí sinh vừa dự kỳ thi tốt nghiệp) hoặc bản sao bằng tốt nghiệp (đối với những thí sinh đã tốt nghiệp những năm học trước);
 b) Nhận Thẻ dự thi (nếu Giấy báo dự thi không kiêm thẻ dự thi);
 c) Nhận phòng thi và nghe phổ biến quy chế dự thi.
 Nếu thấy có những sai sót hoặc nhầm lẫn về họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh, đối tượng, khu vực ưu tiên, khối thi, trường và ngành học,...  thí sinh phải báo cáo HĐTS để điều chỉnh ngay. Trường hợp bị mất Thẻ dự thi hoặc các giấy tờ cần thiết khác, thí sinh phải báo cáo và làm cam đoan để Uỷ viên phụ trách điểm thi xem xét, xử lý;
  2. Thí sinh phải có mặt tại địa điểm thi đúng ngày, giờ quy định. Thí sinh đến chậm quá 15 phút sau khi đã bóc đề thi không được dự thi. Vắng mặt một buổi thi, không được thi tiếp các buổi sau.
 3. Khi vào phòng thi, thí sinh phải tuân thủ các quy định sau đây:
 a) Trước buổi thi đầu tiên, trình Thẻ dự thi cho cán bộ coi thi;
 b)  Xuất trình Giấy chứng minh thư khi CBCT yêu cầu;
c) Chỉ được mang vào phòng thi bút viết, bút chì, compa, tẩy, thước kẻ, thước tính, máy tính điện tử không có thẻ nhớ và không soạn thảo được văn bản;
d) Không được mang vào khu vực thi và phòng thi giấy than, bút xoá, các tài liệu, vũ khí, chất gây nổ, gây cháy, bia, rượu, phương tiện kỹ thuật thu, phát, truyền tin, ghi âm, ghi hình, thiết bị chứa đựng thông tin có thể lợi dụng để làm bài thi và các vật dụng khác. Không được hút thuốc trong phòng thi;
 đ) Trước khi làm bài thi phải ghi đầy đủ số báo danh (cả phần chữ và phần số) vào giấy thi và nhất thiết phải yêu cầu cả hai CBCT ký và ghi rõ họ tên vào giấy thi;
 e) Bài làm phải viết rõ ràng, sạch sẽ, không nhàu nát, không đánh dấu hoặc làm ký hiệu riêng. Nghiêm cấm làm bài bằng hai thứ mực, mực đỏ, bút chì (trừ hình tròn vẽ bằng com pa được dùng bút chì). Các phần viết hỏng phải dùng thước gạch chéo, không dùng bút xoá.
 Phải bảo vệ bài làm của mình và nghiêm cấm mọi hành vi gian lận, không được xem bài của thí sinh khác, không được trao đổi ý kiến, trao đổi tài liệu khi làm bài;
 g) Nếu cần hỏi CBCT điều gì phải hỏi công khai. Phải giữ gìn trật tự, im lặng trong phòng thi. Trường hợp ốm đau bất thường phải báo cáo để CBCT xử lý;
 h) Khi hết giờ thi phải ngừng làm bài và nộp bài cho CBCT. Không làm được bài, thí sinh cũng phải nộp giấy thi. Khi nộp bài, thí sinh phải tự ghi rõ số tờ giấy thi đã nộp và ký tên xác nhận vào bản danh sách theo dõi thí sinh;
 i) Thí sinh chỉ được ra khỏi phòng thi và khu vực thi sau 2/3 thời gian làm bài và sau khi đã nộp bài làm, đề thi cho cán bộ coi thi, trừ trường hợp ốm đau cần cấp cứu do người phụ trách điểm thi quyết định.
(Trích “ Thông tư Số : 11/2011/TT-BGDĐT ngày 28.02.2011)
Số : 11/2011/TT-BGDĐT
Về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng
hệ chính quy ban hành kèm theo Thông tư số 03/2010/TT-BGDĐT
ngày 11 tháng 02 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo