7 tháng 1, 2011

Nam Cao

Tên học sinh: Trần Trung Nghĩa (24). Lớp: 11A8

Nam Cao.
I.Cuộc đời.

1.Tiểu sử.

Nam Cao (1917-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân tại Đại Hoàng, tổng Cao đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam.

Ông học hết bậc Thành Chung, sau đó vào Sài Gòn và có ý định du học, nhưng do sức khỏe nên phải về quê và thất nghiệp; có thời gian ông dạy học cho một trường tư ở Hà Nội, nhưng do chiến tranh, trường đóng cửa, ông chật vật với nghề viết văn và gia sư.

Năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê nhà. Năm 1946, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến; sau đó ông lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ. Năm 1950, ông tham gia chiến dịch Biên giới. Năm 1951, ông hi sinh trên đường làm công tác.

2.Con người

Bề ngoài, Nam Cao vụng về, ít nói, lạnh lung, nhưng đời sống nội tâm luôn sục sôi, căng thẳng: ông thường lấy làm xấu hổ những tư tưởng mà ông tự thấy là tầm thường, hèn kém của mình, đồng thời muốn khắc phục những tư tưởng ấy để sống xứng đáng với danh hiệu Con Người. Trong tâm hồn Nam Cao, thường xuyên diễn ra xung đột gay gắt giữa lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa dũng cảm với hèn nhát, giữa chân thực với giả dối, giữa khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường.

Nam Cao rất giàu ân tình đói với những người nghèo khổ bị áp bước và bị khinh miệt. Theo ông, không có tình thương với đồng loại thì không đáng được gọi là con người. Những tác phẩm ông viết về người nông dân nghèo là một thiên trữ tình đầy xót thương đối với những kiếp sống lầm than.

Nam Cao luôn suy tư về bản thân, cuộc sống, đồng loại từ thực tế mà để rút ra những khái phát triết lí sâu sắc.

 II.Sự nghiệp văn học.
1.   Quan điểm sáng tác.

Với tư cách là nhà văn, Nam Cao rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Chủ nghĩa hiện thực từ đầu thế kỷ XX đến Nam Cao mới thật sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó.

“Trăng sáng”, “Đời thừa” được xem như những tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao. Ông phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công, phục vụ thị hiếu “lãng mạn” của bọn trưởng giả no nê, nhàn rỗi, xem đó là thứ “ánh trăng lừa dối”.

DC: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than… Điền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời.” (Trăng sáng)

Nam Cao chủ trương văn học phải phản ánh chân thực và sâu sắc đời sống cực khổ của nhân dân trên tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Một tác phẩm văn chương hay, có giá trị phải chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc, mang nỗi đau nhân tình, tiếp sức mạnh cho con người.

DC: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho con người gần con người hơn” (Đời thừa).

Văn chương là một hoạt động sáng tạo, đòi hỏi người cầm bút phải biết khơi sâu, tìm tòi, khám phá cái mới.

DC: “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.” (Đời thừa).

Nam Cao quan niệm nhà văn phải là con người chân chính, phải có lương tâm, có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình, không được dối trá, cẩu thả, chạy theo đồng tiền.

DC: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện” (Đời thừa).

Sau CMT8 1945, Nam Cao vẫn tiếp tục sáng tạo theo quan điểm tích cực, song ông đã có cái nhìn toàn diện hơn về hiện thực. Tác phẩm “Đôi mắt” là một bản tuyên ngôn nghệ thuật khác của Nam Cao. Theo ông, phải có đôi mắt của tình thương mới thấu hiểu được bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động; nhờ giác ngộ về vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân , Nam Cao không chỉ nhìn họ bằng đôi mắt của tình thương mà còn cảm phục.

DC: “Người ta chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một miếng kính biến hình của vũ trụ…” (Nước mắt).
“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở và ngu ngốc… Toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương.” (Lão Hạc)

Tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, Nam Cao đã tự nguyện đặt cách mạng lên trên nghệ thuật. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc nghệ thuật lúc này là để sửa soạn cho tôi một thứ nghệ thuật cao hơn” (Nhật kí ở rừng) hay “nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vọng về”, “muốn vứt cả bút đi để cầm sung” (Đường vô nam). Như Nguyễn Đình Thi đã viết: “Anh nắm cổ nghệ thuật của anh, bắt nó phục vụ cho cuộc chiến đấu sống chết của dân tộc.”

Chốt: Nam Cao là nhà văn có quan niệm sáng tác tiến bộ.

2.   Phong cách nghệ thuật.

  Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người bên trong con người”. Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý đến hoạt động bên trong con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài.

DC: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động” (Sống mòn).

Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông có biệt tài miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện thượng dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, giữa hiền và dữ, giữa con người với con vật.

Mở rộng cho luận điểm trên:

Đối với Nam Cao, cái quan trọng nhất của tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cớ, hoàn cảnh mà là con người trước sự kiện, biến cố. Nam Cao không tốn công miêu tả, phân tích hoàn cảnh, mà những hoàn cảnh, sự kiện, tình tiết chỉ đóng vai trò khiêu khích, để cho nhân vật bộc lộ những nét tính cách, tâm lí của mình.

DC: “Đời thừa” không hướng ngòi bút vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lí của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách.

Nam Cao còn phân tích quá trình tích tụ những biểu hiện tâm lí nhỏ nhặt nhất của nhân vật, làm nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con người.

DC: Trong “Chí Phèo”, Nam Cao đã phân tích tâm lí của Chí Phèo từ lúc tỉnh dậy cho đến lúc được Thị Nở cho ăn cháo hành, từ bang khuâng, bang hoàng, thức tỉnh lương tri cho đến lo lắng, khát khao hạnh phúc để làm rõ được bản chất lương thiện vẫn còn sống trong tâm hồn Chí.

Nam Cao thường đặt nhân vật trong “hoàn cảnh nhỏ”, tập trung khai thác, khám phá, phát hiện, miêu tả cụ thể và sinh động tâm lí của con người bộc lộ trong cuộc sống hằng ngày => Chủ nghĩa hiện thực tâm lí đời thường.

DC: Trong “Đời thừa”, Hộ vốn nghèo lại phải gánh vác gia đình, phải “xoay tiền”, “điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách…” Hộ lang thang, u buồn, nuối tiếc “những mộng đẹp ngày xưa”, sau còn say, chửi mắng, đánh đập vợ con.

Nam Cao cũng thường rọi chiếu những hcỉ tiết tâm lí của nhân vật ánh sáng cuản hững tư tưởng có màu sắc triết lí thâm trầm, sâu sắc, khi thì nặng trĩu buồn thương, lúc pha hài hướcm hóm hỉnh.=> Chủ nghĩa hiện thực tâm lí-triết lí.

DC: “Chao ôi! Cuộc sống như cuộc sống của chúng ta đang sống bây giờ đã thật có gì đáng cho ta thấy vui chưa? Người ta ghét nhau hoặc yêu nhau, nhưng bao giờ cũng làm khổ nhau cả.” (Sống mòn).

Nam Cao đã mở rộng việc phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn con người, kể cả những “con người bé nhỏ” như Chí Phèo, Thị Nở. Nhiều nhân vật của ông đã “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Trong truyện Nam Cao, thế giới bên trong nhân vật, mặc dù là thế giới riêngm nhưng vẫn liên quan mật thiết đến thế giới bên ngoài. Đối với Nam Cao, việc “phân tích tâm lí nhân vật” không thể tách rời việc “phân tích xã hội”. Đây là khuynh hướng phân tích mới cho hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam.

Truyện Nam Cao có tính triết lí sâu sắc, triết lí mà không khô khan, xuất phát từ chính cuộc sống thực và từ tâm tư dằn vặt, đau đớn của nhà văn.

DC: “Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa, cái bản tính tốt của người ta bị những lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất.” (Lão Hạc).

Nhiều tác phẩm của Nam Cao được dệt nên từ những “cái hằng ngày” nhỏ nhặt, xoàngxĩnh liên quan đến đời sống riêng tư của các nhân vật mà không thường gọi là “những chuyện không muốn viết”. Thế nhưng qua đó, Nam Cao đã chạm đến vấn đề có tính nhân bản, đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa lớn lao, về thân phận con người, chứa đựng những triết lí nhân sinh sâu sắc, quan điểm nghệ thuật tiến bộ và vấn đề xã hội về tương lai của dân tộc và nhân loại. Bị kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh hang ngày, qua ngòi bút của Nam Cao, đã trở thành những bi kịch vĩnh cữu.

DC: Những tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ Điền xuống với biết bao khổ cực lầm than. (Trăng sáng).
Cái lí tưởng nhân đạo cao cả, hoài bão nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ “chết mòn” trước sự tấn công quyết liệt và dai dẳng, tàn bạo của cái đói, miếng ăn.( Đời thừa).

Truyện Nam Cao luôn thay đổi giọng điệu, trong đó có hai giọng điệu cơ bản nhất: giọng tự sự lạnh lung với những đại từ mang sắc thái dửng đưng hay khinh bạc: y, thị, hắn…và giọng trữ tình sôi nổi tha thiết với những thán từ “chao ôi”, “hỡi ôi”. Hai giọng văn tuy đối lập nhưng chuyển hóa qua lại tạo sự hài hòa. Ngoài ra giọng điệu khác nhau của các nhân vật được trần thuật bằng lời kể trực tiếp hay nửa trực tiếp.

Sau CMT8, Nam Cao nhiệt tình dùng ngòi bút phục vụ cách mạng, đã tiếng những bước vững chắc trên con đường nghệ thuật cách mạng. Truyện ngắn “Đôi mắt” xứng đáng đượcxem là tác phẩm vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

Với Nam Cao, truyện ngắn Việt Nam thể hiện đầy đủ tính hiện đại, đồng thời đạt đến độ hoàn thiện. Nam Cao còn có đóng góp lớn cho sự phát triển phong phú của ngôn ngữ văn xuôi nước ta.

Chốt: Nam Cao là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo với tài miêu tả phân tích nội tâm nhân vật bậc thầy, nêu lên những triết lí nhân sinh sâu sắc, có sức khái quát lớn, xứng đáng là một nhà văn tài ba của văn học Việt Nam.

3.Các đề tài chính.

I. Trước Cách mạng.

Những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng gồm gần sáu mươi truyện ngắn, một truyện vừa, một tiểu thuyết, kịch và thơ.

Nam Cao xoay quanh hai vấn đề chính: người nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Tuy khác nhau về đề tài nhưng các sáng tác của ông vẫn có chung một tư tưởng: nỗi băn khoăn đau đớn trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới.

  1. Đề tài người trí thức nghèo.

Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất, mỗi trang viết về đề tài người trí thức nghèo đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.

Thứ nhất, Nam Cao đau đớn, phẫn uất trước tình cảnh con người không sao thoát khỏi kiếp “sống mòn” hay “chết mòn”. Những ước mơ, niềm say mê khát vọng chân chính cuản hững nhân vật trí thức trong tác phẩm Nam Cao đều bị vùi dập bởi hoàn cảnh, cuộc đời. Nam Cao chán ghét cuộc sống vô lí, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”. Ông không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh học. Nam cao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn tột độ trước bị kịch của những con ngườim uốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đó, ta thấy Nam Cao đã có cái nhìn sâu sắc, có tầm triết lí, tổng  hợp khái quát cao về tình trạng “chết mòn” của con người.

DC: “Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày” (Sống mòn).
“Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì đó để mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết ucc5 chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?” (Đời thừa).

Thứ hai, những nhân vật trí thức của Nam Cao không những “chết mòn” những ước mơ, khát vọng, hoài bão mà còn “chết mòn”về mặt nhân cách con người, dẫn đến những ý nghĩ, hành động tàn nhẫn. Qua đó, Nam Cao đã phê phán sâu sắc cái xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống , tàn phá tâm hồn con người.

DC: Trong cơn say vật vã, Hộ đã chửi bới, quăng đồ đặc, đánh đập đòi đuổi Từ và các con trong “Đời thừa”.

Thế nhưng, trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạngcó những hành động tàn nhẫn, Nam Cao vẫn không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình. Nhân vật của Nam Cao không phải không có lúc ngả nghiêng, chao đảo, nhưng cuối cùng đều đứng vững trên lập trường nhân đạo, vẫn giữ vững được cái lẽ sống tình thương cao cả của mình.

DC: Mặc dù bế tắc, khổ đau nhưng Hộ trong “Đời thừa” vẫn không chấp nhận sự tàn nhẫn và không thể vứt bỏ tình thương: “Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương…”

Cuối cùng, Nam Cao thể hiện niềm khát khao một lẽ sống lớn, một cuộc sống sâu sắc, mãnh liệt, có ích, có ý nghĩa. Những con người mang hoài bão lớn hầu như lâm vào cảnh “chết mòn”, nhưng dẫu bị “áo cơm ghì sát đất”, họ vẫn chưa hoàn toàn cạn hết niềm tìn, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển.

DC: Thứ trong “Sống mòn” đã từng “thích làm một việc ảnh hưởng đến xã hội ngay” và quan niệm: “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng trong mình…Mỗi người chết đi, phải để lại chút gì cho nhân loại.”

Nam Cao đòi hỏi để cho mỗi cá nhân được phát triển đến tận độ với một ý thức đầy trách nhiệm và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của xã hội. Tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện đại Việt Nam trước Cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài cả thời đại Nam Cao.

TPTB: “Đời thừa”, “Trăng sáng”, tiểu thuyết “Sống mòn”…

  1. Đề tài người nông dân nghèo.

Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, của những con người nghèo khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến.

Viết về đề tài này, Nam Cao đã dựng nên một bức tranh sống động, chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói, xơ xác, thể thảm những năm 1940-1945.

DC:

Nam Cao chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bị một cách bất công.

DC:

Nam Cao còn lên án cái xã hội, những thành kiến, định kiến tồi tệ đã đẩy con người vào đường cùng tuyệt vọng, hủy hoại từ ngoại hình cho đến nhân phẩm của họ.

DC: Cái chết của Chí Phèo phần nào minh chứng cho điều này, Chí Phèo đã bị tước đoạt ngoài hình, bị xã hội hắt hủi, cự tuyệt quyền làm người lương thiện, bị từ chối cả tình yêu với thị Nở, cuối cùng Chí phải tự sát để giải thoát.

Trên hết, Nam Cao với trái tim yêu thương chân thành, ông vẫn tin rằng trong tâm hồn của những con người không còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như những con vật vẫn còn nhân tính, khát khao nhân bản và bản chất lương thiện vẫn còn tồn tại. Bằng việc phát hiện ra cái phần con người còn sót lại, trân trọng những khát khao nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng chừng đã bị cuộc đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong những nhà nhân đạo lớn nhất nền văn học hiện đại Việt Nam.

DC: Đằng sau bộ mặt xấu xí “ma chê quỷ hờn” của Thị Nở vẫn tồn tại một khát khao yêu thương, và khi được tình yêu sưởi ấm, thị cũng hồi hộp, vui mừng, cũng “lườm”, “quýt”, “âu yếm”, “e thẹn”…
Thậm chí, ở Chí Phèo- một kẻ lưu manh bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính- vẫn cảm nhận được những rung động của tình yêu, vẫn lo lắng, và khao khát lương thiện trước sự chăm sóc của Thị Nở.

=>Đối với Nam Cao, chỉ có tình thương yêu giữa con người với con người mới có sức mạnh cảm hóa, làm “người gần người”, cuộc sống tốt đẹp hơn.

THPT: “Chí phèo”, “Một bữa no”,  “Một đám cưới”, “Lão Hạc”, dì Hảo”…

Chốt: Dù viết về đề tài gì đi nữa thì Nam vẫn là một nhà văn hiện thực lớn bằng việc miêu tả xã hội, con người trước xã hội, đồng thời ông cũng là một nhà văn nhân đạo lớn luôn đặt tình thường yêu lên làm đầu khi sáng tác.

II. Sau Cách mạng.

Sau CM, Nam cao dùng ngòi bút phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.

TPTB: “Nhật kí ở rừng”, “Đôi mắt”, “Đường vô nam”…

III.Kết luận.

Nam Cao là nhà văn hiện thực và nhân đạo lớn.

Những tác phẩm của ông trường tồn với thời gian với những ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện độc đáo.

Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa nửa đầu thế kỉ XX.

4 nhận xét:

  1. vớ vẩn:((Giống trong SgK. Vs lại còn thiếu phong cách văn chương nữa

    Trả lờiXóa
  2. Tớ thấy hay á, một bài thuyết trình có dẫn chứng thuyết phục. Làm người đọc cũng thấy hứng thú hơn trong việc tìm tòi những thông tin về tác giả này. Cảm ơn bạn rất nhiều

    Trả lờiXóa